Quantcast
Channel: Sentora Support Forums - All Forums
Viewing all articles
Browse latest Browse all 4648

phan tich thon vi da binh ngo cao 13 cau voi vang nhan vat mi phung

$
0
0
phan tich bai tho day thon vi da 11 phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo cảm nhận của e về 13 câu thơ đầu bài vội vàng phân tích nhân vật mị trong đêm tình mùa xuân phân tích nhân vật phùng

phan tich bai tho day thon vi da 11 Năm 1427, cuộc kháng chiến chống giặc Minh hoàn toàn chiến thắng. Năm sau chậm tiến độ, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều Hậu Lê, đã sai Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để cho toàn dân được biết chiến thắng vĩ đại của quân dân trong 10 năm đấu tranh gian khổ, từ nay nước Việt lại được độc lập, non sông thăng bình. Bình Ngô đại cáo là một áng văn kiệt xuất, được coi là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc bên cạnh Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. trước tiên, Bình Ngô đại cáo là áng văn chính luận tổng kết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dựa trên những tư tưởng mới mẻ và tiến bộ về quốc gia và quần chúng. #. Dưới đây, mình sẽ chỉ dẫn Cả nhà Phân tích về bài Bình Ngô đại cáo

DÀN Ý BÀI VẲN Tìm hiểu TÁC PHẨM BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO CỦA NGUYỄN TRÃI
một. MỞ BÀI
Giới thiệu tác nhái, tác phẩm

2. THÂN BÀI
Phần 1: Việc nhân nghĩa...chứng cứ còn ghi: Nêu luận đề chính nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo
Chân lí về sự tồn tại độc lập, sở hữu chủ quyền của dân tộc Việt Nam:
Nền văn hiến, phong tục, lịch sử, chế độ riêng
So sánh với Nam quốc sơn hà: tiến bộ, sâu sắc, toàn diện hơn

Phần 2: Vừa rồi...ai bảo thần nhân chịu được: Bản cáo trạng gang thép về tội ác của kẻ thù
các âm mưu và tội ác của kẻ thù: mưu mô xâm lược, chính sách cai trị vô nhân đạo, tàn sát người vô tội, bóc lột mọi rợ, hủy diệt không gian sống
Hình ảnh nhân dân: khốn khổ, khổ thân, đáng thương
Hình ảnh kẻ thù: tàn ác, vô nhân tính
Nghệ thuật: cường điệu, nghi vấn tu từ, giọng điệu uất hận trào sôi, cảm thương tha thiết

phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo Phần 3: Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa...Cũng là chưa thấy xưa nay: đề cập lại công đoạn chiến đấu gian khổ và kết cục toàn thắng của khởi nghĩa Lam Sơn
Hình tượng người chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian khổ ban sơ của cuộc khởi nghĩa
nguồn cội xuất thân: chốn hoang dã nương mình
Lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí, hoài bão cao cả
những vấn đề của nghĩa binh Lam Sơn: quân thù đang mạnh, tàn bạo; quân ta đội ngũ mỏng, lương thực khan thảng hoặc
Sức mạnh giúp ta chiến thắng: ý chí khắc phục gieo neo, sức mạnh đoàn kết, chiến lược, chiến thuật linh động, tư tưởng chính nghĩa
công đoạn phản công và thắng lợi
Khí thế của quân ta hào hùng, chiến thắng dồn dập, liên tục
Hình ảnh quân thù tham sống sợ chết, hèn nhát, thảm bại

Phần 4: Tuyên bố chiến thắng và nêu lên bài học lịch sử
Tuyên bố, khẳng định với toàn dân nền độc lập chủ quyền của dân tộc đã được lập lại
Tư tưởng cách tân quốc gia, tin tưởng vào ngày mai

Đánh giá: nội dung và nghệ thuật

3. KẾT BÀI
Khẳng định ý nghĩa và giá trị của tác phẩm

BÀI VẲN Tìm hiểu TÁC PHẨM BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO
Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi đã ghi dấu tên mình như 1 nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc. ko chỉ vậy, ông còn là một thi sĩ, nhà văn vĩ đại. nổi trội trong gia tài văn chương của Nguyễn Trãi là những áng văn chính luận kết hợp hài hòa giữa tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước thương dân mang lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn. Bình ngô đại cáo là tác phẩm diễn đạt rõ nhất nhân tài cũng như tấm lòng nhân đạo của ông.

Bình Ngô đại cáo xây dựng thương hiệu sau lúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa:

cảm nhận của e về 13 câu thơ đầu bài vội vàng “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
nhân nghĩa vốn là một phạm trù tư tưởng của nho giáo, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa người có người trên hạ tầng tình thương và đạo lí. Nguyễn Trãi đã gạn lọc lấy hạt nhân cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa cốt yếu để im dân, cùng lúc phát huy truyền thống tốt đẹp của người Việt, mang đến nội dung mới cho nhân nghĩa: nhân nghĩa là im dân trừ bạo. Đó là cơ sở để phanh phui giọng điệu xảo quyệt của giặc Minh, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa của quân ta và tính chất xâm lăng phi nghĩa của kẻ thù. không những thế, nhân ngãi còn gắn sở hữu việc bảo kê chủ quyền quốc gia, giữ gìn độc lập dân tộc:

[Image: binhngodaicao.jpg]

“Như nước Đại Việt ta trong khoảng trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
trong khoảng Triệu, Đinh, Lý, è bao đời xây nền độc lập
cùng Hán, các con phố, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu sở hữu lúc khác nhau
Song nhân tài thời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập, với chủ quyền của dân tộc ta. có cảm hứng yêu nước, Nguyễn Trãi đã kể về độc lập dân tộc rất cụ thể: nước Đại Việt ta mang bờ cõi bờ cõi, mang lịch sử, với nền văn hiến lâu đời, với lịch sử riêng, sở hữu chế độ riêng, mang người hiền tài. Giọng điệu trọng thể, vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. những trong khoảng ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự còn đó hiển nhiên, vốn có lâu đời của 1 đất nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. So sở hữu Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, tinh thần độc lập dân tộc của Bình Ngô đại cáo toàn diện và sâu sắc hơn. Lý Thường Kiệt mới chỉ xác lập địa vị dân tộc ở 2 phương diện bờ cõi và chủ quyền. Nguyễn Trãi xác định dân tộc ở phổ biến phương diện: bờ cõi, lịch sử, văn hóa, văn hiến, con người. Lý Thường Kiệt căn cứ vào thiên thư- yếu tố linh tính chứ chẳng hề thực tại lịch sử. Nguyễn Trãi ý thức rõ và đề cao những nhân tố thực tế, cơ bản nhất để làm cho nên một quốc gia độc lập. Tiếp theo, ông nêu ra những trận đấu trước đây mang phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:

“Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải bại vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa coi xét,
bằng cớ còn ghi”
Soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tiễn lịch sử, tác giả nêu lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù:
“Vừa rồi:

phân tích nhân vật mị trong đêm tình mùa xuân Nhân họ Hồ chính sự quấy rầy,
Để trong nước lòng dân thù oán.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng thường dân trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn vàn kế,
Gây binh kết oán trải 2 mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế má sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển loại lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát sắm vàng, khổ một nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống sâu bọ cây cỏ,
Nheo ranh thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há mồm, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng năn nỉ những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
cay nghiệt thay, trúc Nam Sơn ko ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải ko rửa sạch mùi.
dễ thường trời đất dung thứ,
người nào bảo thần nhân chịu được?”
Phù trần diệt Hồ chỉ là bức bình phong giặc để Minh lừa dối người đời. Mục đích của chúng là lợi dụng tình hình chính trị bất ổn để thực hiện âm mưu xâm lăng nước ta. Ngay sau Đó là các câu văn thấm đẫm nước mắt và sự thương xót. Nguyễn Trãi đã phác họa bức tranh khổ cực của quần chúng ta khi giặc Minh xâm chiếm: kẻ lên núi tìm vàng, người xuống biển mò ngọc, hoàn cảnh chia lìa nheo ranh ma, khốn cùng, vợ mất chống, con mất cha, gia đình li tán, dân tình bị đẩy vào cảnh phu phen, tàn hại cả môi trường sống. Hình ảnh quần chúng. # hiện lên khổ thân, đáng thương, khốn khổ, khi mà ngừng thi côngĐây hình ảnh quân thù tàn nhẫn, vô nhân tính như những tên ác quỷ. Bằng biện pháp kể quá, tội ác của kẻ thù được khắc họa trong hai câu thơ giàu sức gợi: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Giọng điệu vừa uất hận sôi trào, vừa bi cảm tha thiết. đau xót và căm thù tội ác trời không dung, đất ko tha của quân giặc, nhân dân Đại Việt đã đồng lòng đứng dậy:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cộng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một 2 tối ngày.
Quên ăn vì giận, sách thao lược suy xét đã tinh,
Ngẫm trước cho đến nay, lẽ hưng phế ngần ngừ càng kỹ.
các trăn trở trong cơn nằm mê,
Chỉ băn khoăn 1 nỗi đồ hồi
Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

anh tài như sao buổi sớm,
anh tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác thảng hoặc người bàn luận,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm bẳm còn dành phía tả.

Thế mà:

phân tích nhân vật phùng Trông người, người càng vắng bóng, mờ mịt như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết trôi.
Phần vì giận quân thù dọc ngang,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
lúc Linh Sơn lương hết mấy tuần,
lúc Khôi huyện quân ko một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí giải quyết gian truân.
dân chúng bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phơi phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
sử dụng quân mai phục, lấy ít địch đa dạng.

Viewing all articles
Browse latest Browse all 4648

Trending Articles